dịch vụ web là một trong những keyword được search nhiều nhất trên google về chủ đề dịch vụ web Trong bài viết này hoclamweb.com.vn sẽ viết bài Tổng hợp dịch vụ web mới nhất 2020.
Tổng hợp dịch vụ web mới nhất 2020
1. mô tả công nghệ
Theo khái niệm của W3C (World Wide web Consortium), web service là một hệ thống phần mềm được design để hỗ trợ mức độ tương tác giữa các áp dụng trên các máy tính khác nhau thông qua mạng Internet, giao diện chung và sự quan hệ của nó được giới thiệu bằng XML. website service là tài nguyên software đủ nội lực định hình bằng địa chỉ URL, thực hiện các tính năng và đưa ra các thông tin người dùng yêu cầu. Một web service được tạo nên bằng hướng dẫn lấy các tính năng và đóng gói chúng sao cho các áp dụng khác đơn giản nhìn thấy và đủ sức truy cập đến những dịch vụ mà nó thực hiện, song song đủ sức yêu cầu thông tin từ website service khác. Nó gồm có các mô đun độc lập cho hoạt động của khách hàng và công ty và bản thân nó được thực thi trên server.
trước hết, có thể nói rằng áp dụng cơ bản của web service là tích hợp các nền móng và là một trong những hoạt động chính khi phát triển nền tảng. Trong nền móng này, các áp dụng cần được tích hợp với cơ sở dữ liệu (CSDL) và các ứng dụng không giống, người dùng sẽ giao tiếp với CSDL để tiến hành nghiên cứu và quét dữ liệu. Trong thời gian Khoảng thời gian mới đây, việc tăng trưởng mạnh mẽ của thương mại điện tử và B2B cũng đòi hỏi các nền móng phải có cấp độ tích hợp với CSDL của các partners kinh doanh (nghĩa là tương tác với hệ thống bên ngoài – bên cạnh tương tác với các yếu tố bên trong của hệ thống trong doanh nghiệp).
Dưới đây, chúng ta sẽ xem qua những khái niệm và phương thức cơ bản nhất để thiết lập một website service trong tích hợp và phát triển hệ thống.
2. Đặc điểm của website service
a) Đặc điểm
- website service cho phép client và server tương tác được với nhau ngay cả trong những nơi không giống nhau. ví dụ, đặt web server cho ứng dụng trên một máy chủ chạy hệ điều hành Linux trong khi user dùng máy tính chạy hệ điều hành Windows, ứng dụng vẫn có thể chạy và giải quyết bình thường mà k cần thêm yêu cầu đặc biệt để tương like giữa hai hệ điều hành này.
- phần đông kĩ năng của web service được xây dựng dựa trên mã gốc mở và được phát triển từ các hợp lý đã được xác nhận, gợi ý giống như XML.
- Một website service gồm có có nhiều mô-đun và đủ nội lực công bố lên online Internet.
- Là sự hòa hợp của việc phát triển theo hướng từng yếu tố với những ngành nghề cụ thể và cơ sở hạ tầng web, đưa ra những lợi ích cho cả doanh nghiệp, khách hàng, những nhà sản xuất khác và cả những cá nhân thông qua trực tuyến Internet.
- Một áp dụng khi được khai triển sẽ hoạt động theo mô hình client-server. Nó đủ nội lực được triển khai bởi một phần mềm áp dụng phía server ví dụ như PHP, Oracle Application server hay Microsoft.Net…
- hiện tại web service vừa mới rất tăng trưởng, những ngành nghề trong cuộc đời đủ sức ứng dụng và tích hợp web service là khá rộng to giống như dịch vụ tập hợp và phân loại tin tức (hệ thống thư viện có liên kết đến website portal để search các thông tin cần thiết); ứng dụng cho các dịch vụ du lịch (cung cấp giá vé, thông tin về địa điểm…), các cửa hàng bán hàng qua online, thông tin thương mại giống như giá cả, tỷ giá hối đoái, đấu giá qua mạng…hay dịch vụ giao dịch Trực tuyến (cho cả B2B và B2C) giống như đặt vé máy bay, thông tin thuê xe…
- Các vận dụng có tích hợp web service vừa mới không còn là xa lạ, đặc biệt trong điều kiện thương mại điện tử đang bùng nổ và tăng trưởng k ngừng cùng với sự lớn mạnh của Internet. Bất kì một ngành nào trong cuộc sống cũng đủ nội lực tích hợp với web service, đây là bí quyết mua bán và sử dụng việc có hiệu quả bởi thời đại ngày nay là niên đại của truyền thông và đàm đạo thông tin qua mạng. vì vậy, việc phát triển và tích hợp các ứng dụng với website service đang được chú ý tăng trưởng là điều hoàn toàn dễ hiểu.
b) Ưu và nhược điểm
Ưu điểm:
- web service cung cấp khả năng hoạt động rộng lớn với các vận dụng phần mềm không giống nhau chạy trên những hệ thống khác nhau.
- sử dụng các giao thức và phù hợp mở. Giao thức và định hình dữ liệu dựa trên văn bản (text), giúp các lập trình viên dễ dàng hiểu được.
- Nâng cao cấp độ tái sử dụng.
- thúc đẩy đầu tư các nền móng software đã tồn tại bằng hướng dẫn cho phép các tiến trình/chức năng nghiệp vụ đóng gói trong giao diện web service.
- Tạo mối quan hệ tương tác lẫn nhau và mềm dẻo giữa các thành phần trong nền móng, dễ dàng cho việc phát triển các ứng dụng phân tán.
- thúc đẩy nền tảng tích hợp, giảm sự phức tạp của nền móng, hạ giá bán hoạt động, phát triển hệ thống nhanh và tương tác kết quả với nền móng của các doanh nghiệp không giống.
Nhược điểm:
- Những thiệt hại lớn sẽ xảy ra vào khoảng thời gian chết của web service, giao diện không refresh, đủ nội lực lỗi nếu một máy khách không được nâng cấp, thiếu các giao thức cho việc vận hành.
- Có quá nhiều phù hợp cho website service khiến user khó nắm bắt.
- Phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề an toàn và bảo mật.
3. Kiến trúc của website service
website service bao gồm 3 phù hợp chính: SOAP (Simple Object Access Protocol), WSDL (Web Service Description Language) và UDDI (Universal Description, Discovery, and Integration). ảnh 1 giới thiệu chồng giao thức của website service, trong đó UDDI được dùng để tải ký và tìm tòi web service vừa mới được diễn tả cụ thể trong WSDL. Giao tác UDDI sử dụng SOAP để nói chuyện với UDDI server, sau đó các áp dụng SOAP yêu cầu một web service. Các thông điệp SOAP được gửi đi chuẩn xác bởi HTTP và TCP/IP.
Chồng giao thức website service là quy tụ các giao thức online máy tính được sử dụng để khái niệm, xác định vị trí, thi hành và tạo nên website service tương tác với những vận dụng hay dịch vụ không giống. Chồng giao thức này có 4 yếu tố chính:
- Dịch vụ vận tải (Service Transport): có nghĩa vụ truyền thông điệp giữa các ứng dụng online, bao gồm những giao thức như HTTP, SMTP, FTP, JSM và Hiện nay nhất là giao thức cải thiện khổi xây dựng rộng (Blocks Extensible Exchange Protocol- BEEP).
- Thông điệp XML: có nghĩa vụ giải mã các thông điệp theo định hình XML để đủ nội lực hiểu được ở mức vận dụng tương tác với người dùng. bây giờ, những giao thức thực hiện Nhiệm vụ này là XML-RPC, SOAP và REST.
- mô tả dịch vụ: được sử dụng để diễn đạt các giao diện chung cho một web service cụ thể. WSDL thường được dùng cho mục đích này, nó là một ngôn ngữ mô tả giao tiếp và thực thi dựa trên XML. web service sẽ sử dụng ngôn ngữ này để truyền tham số và các loại dữ liệu cho các thao tác và tính năng mà web service phân phối.
- tìm hiểu dịch vụ: tập kết dịch vụ vào trong một ngành được tải ký, từ đó giúp một web service đủ nội lực đơn giản tìm tòi ra những dịch vụ nào vừa mới có trên online, tốt hơn trong việc tìm kiếm những dịch vụ khác để tương tác. Một web service cũng phải tiến hành tải ký để các dịch vụ khác đủ nội lực truy cập và giao tiếp. cho đến nay, UDDI API thường được dùng để thực hiện công việc này.
Trong đó, tầng giao thức tương tác dịch vụ (Service Communication Protocol) với công nghệ phù hợp là SOAP. SOAP là giao thức nằm giữa tầng vận chuyển và tầng mô tả thông tin về dịch vụ, cho phép người dùng triệu gọi một dịch vụ từ xa thông qua một thông điệp XML. không những thế, để các dịch vụ có tính an toàn, toàn vẹn và bảo mật thông tin, trong kiến trúc web service, chúng ta có thêm các tầng Policy, Security, Transaction, Management.
4. Các nguyên nhân của web service
a) XML – eXtensible Markup Language
Là một phù hợp mở do W3C mang ra cho công thức giới thiệu dữ liệu, nó được dùng để định nghĩa các nguyên nhân dữ liệu trên trang web và cho những ebook B2B. Về thể loại, XML hoàn toàn có cấu trúc thẻ giống như ngôn ngữ HTML nhưng HTML khái niệm yếu tố được hiển thị ntn thì XML lại định nghĩa những nguyên nhân đó chứa cái gì. Với XML, các thẻ đủ sức được lập trình viên tự tạo ra trên mỗi web và được lựa chọn là định hình thông điệp hợp lý bởi tính đa dạng và kết quả mã gốc mở.
Do web service là sự hòa hợp của nhiều thành phần khác nhau nên nó dùng các tính năng và đặc trưng của các thành phần đó để giao tiếp. XML là công cụ chính để giải quyết vấn đề này và là kiến trúc nền móng cho việc thiết lập một website service, tất cả dữ liệu sẽ được chuyển sang định hình thẻ XML. Khi đó, các thông tin mã hóa sẽ hoàn toàn thêm vào với các thông tin theo phù hợp của SOAP hoặc XML-RPC và đủ sức tương tác với nhau trong một thể thống nhất.
b) WSDL – web Service Description Language
WSDL khái niệm phương pháp giới thiệu web service theo cú pháp tổng quát của XML, bao gồm các thông tin:
- Tên dịch vụ
- Giao thức và kiểu mã hóa sẽ được dùng khi gọi các hàm của web service
- Loại thông tin: thao tác, tham số, những kiểu dữ liệu (có thể là giao diện của web service cộng với tên cho giao diện này).
Một WSDL hợp lệ gồm hai phần: phần giao diện (mô tả giao diện và phương thức kết nối) và phần thi hành giới thiệu thông tin truy xuất CSDL. Cả hai phần này sẽ được lưu trong 2 tập tin XML tương ứng là tập tin giao diện dịch vụ và tập tin thi hành dịch vụ. Giao diện của một web service được diễn đạt trong phần này mang ra công thức làm sao để giao tiếp qua web service. Tên, giao thức link và định hình thông điệp yêu cầu để tương tác với website service được đưa vào thư mục của WSDL.
WSDL thường được sử dụng phối hợp với XML schema và SOAP để phân phối web service qua Internet. Một client khi gắn kết tới web service đủ sức đọc WSDL để xác định những chức năng sẵn có trên server. Sau đó, client đủ sức dùng SOAP để quét ra chức năng chuẩn xác có trong WSDL.
c) Universal Description, Discovery, and Integration (UDDI)
Để đủ sức sử dụng các dịch vụ, trước nhất client phải tìm dịch vụ, ghi nhận thông tin về cách dùng và biết được đối tượng nào cung cấp dịch vụ. UDDI định nghĩa một số thành phần cho biết các thông tin này, cho phép các client truy tìm và nhận những thông tin được yêu cầu khi sử dụng website service.
– Cấu trúc UDDI :
- Trang trắng – White pages: chứa thông tin liên hệ và các định hình chính yếu của website service, chẳng hạn tên giao dịch, địa chỉ, thông tin nhận dạng… Những thông tin này cho phép các phân khúc khác dựng lại được dịch vụ.
- Trang vàng – Yellow pages: chứa thông tin mô tả website service theo những loại khác nhau. Những thông tin này cho phép các thị trường thấy được website service theo từng loại với nó.
- Trang xanh – Green pages: chứa thông tin kỹ thuật mô tả các hành vi và các chức năng của website service.
- Loại dịch vụ – tModel: chứa các thông tin về loại dịch vụ được dùng.
Những thông tin về website service được sử dụng và công bố lên online sử dụng giao thức này. Nó sẽ click hoạt các vận dụng để kiếm tìm thông tin của web service không giống nhằm định hình nhìn thấy dịch vụ nào sẽ cần đến nó.
d) SOAP – Simple Object Access Protocol
Chúng ta đang hiểu cơ bản website service ntn nhưng luôn luôn còn một chủ đề khá cần thiết. Đó là làm sao để truy xuất dịch vụ khi đang tìm thấy? Câu trả lời là các website service đủ sức truy xuất bằng một giao thức là Simple Object Access Protocol – SOAP. Nói mẹo khác chúng ta đủ nội lực truy xuất đến UDDI registry bằng các lệnh gọi hoàn toàn theo định hướng của SOAP.
SOAP là một giao thức giao tiếp có cấu trúc như XML. Nó được xem là cấu trúc xương sống của các vận dụng phân tán được xây dựng từ nhiều ngôn ngữ và các hệ điều hành khác nhau. SOAP là giao thức refresh các thông điệp dựa trên XML qua online máy tính, thông thường sử dụng giao thức HTTP.
Một client sẽ gửi thông điệp yêu cầu tới server và ngay lập tức server sẽ send những thông điệp trả lời tới client. Cả SMTP và HTTP đều là những giao thức ở lớp vận dụng của SOAP nhưng HTTP được dùng và chấp nhận rộng rãi hơn bởi bây giờ nó có thể sử dụng việc rất tốt với cơ sở hạ tầng Internet.
Cấu trúc một thông điệp theo dạng SOAP
Thông điệp theo định hình SOAP là một văn bản XML bình thường gồm có các phần tử sau:
- Phần tử nguồn – envelop: phần tử bao trùm nội dung thông điệp, khai báo văn bản XML giống như là một thông điệp SOAP.
- Phần tử đầu trang – header: chứa các thông tin tittle cho trang, phần tử này không bắt buộc khai báo trong văn bản. Header còn đủ nội lực mang những dữ liệu chứng thực, những chứ ký số, thông tin mã hóa hay setup cho các giao dịch khác.
- Phần tử khai báo content chính trong thông điệp – body, chứa các thông tin yêu cầu và thông tin được góp ý.
- Phần tử mang ra các thông tin về lỗi -fault, cung cấp thông tin lỗi xảy ra trong qúa trình xử lý thông điệp.
Một SOAP đơn giản trong body sẽ lưu các thông tin về tên thông điệp, tham chiếu tới một thể hiện của dịch vụ, một hoặc nhiều tham số. Có 3 kiểu thông báo sẽ được đưa ra khi truyền thông tin: request message(tham số gọi thực thi một thông điệp), respond message (các tham số trả về, được sử dụng khi yêu cầu được đáp ứng) và cuối cùng là fault message (thông báo tình trạng lỗi).
Kiểu truyền thông: Có 2 kiểu truyền thông
- Remote procedure call (RPC): cho phép gọi hàm hoặc thủ tục qua mạng. Kiểu này được khai thác bởi nhiều website service.
- Document: được biết đến giống như kiểu hướng thông điệp, nó phân phối giao tiếp ở mức trừu tượng thấp, khó hiểu và yêu cầu lập trình viên mất công sức hơn.
Hai kiểu truyền thông này cung cấp các định dạng thông điệp, tham số, lời gọi đến các API không giống nhau nên việc sử dụng chúng tùy thuộc vào thời gian và sự thêm vào với web service cần xây dựng.
Cấu trúc dữ liệu: phân phối những định hình và khái niệm cơ bản như trong các ngôn ngữ lập trình không giống như kiểu dữ liệu (int, string, date…) hay những kiều phức tạp hơn như struct, array, vector… khái niệm cấu trúc dữ liệu SOAP được đặt trong namespace SOAP-ENC.
Mã hóa: Giả sử service rquester và service provider được phát triển trong Java, khi đó mã hóa SOAP là làm sao để biến đổi từ cấu trúc dữ liệu Java sang SOAP XML và ngược lại, bởi vì định hướng cho web Service chính là XML. Bất kỳ một hoàn cảnh thực thi SOAP nào cũng phải có một bảng chứa thông tin ánh xạ nhằm biến đổi từ ngôn ngữ Java sang XML và từ XML sang Java – bảng đó được gọi là SOAPMappingRegistry. Nếu một kiểu dữ liệu được sử dụng dưới một dạng mã hóa thì sẽ có một ánh xạ tồn tại trong bộ tải ký của hoàn cảnh thực thi SOAP đó.
5. An toàn cho website service
web service liên kết và tương tác với các ứng dụng qua Internet, chính do vậy bảo mật là một vấn đề được để ý khi các công ty tiến tới hòa hợp ứng dụng với một web service. Việc đảm bảo an toàn cho web service là một chủ đề cần thiết, đặc biệt đối với những dịch vụ liên quan đến bàn thảo tiền tệ, thông tin từ đối tượng chứng khoán hay dịch vụ bán hàng qua trực tuyến (liên quan đến trả tiền bằng tài khoản và có yêu cầu thông tin một mình của người dùng).
Trước khi có WS-Security (bảo mật cho web service) thì ý nghĩa thông thường của an toàn web service là bảo mật kênh truyền dữ liệu. hiện nay, nó được thực hiện cho những SOAP/HTTP dựa trên cơ chế mạng điệp bằng cách dùng giao thức HTTPS. k chỉ là an toàn ở mức truyền thông điệp, HTTPS còn phân phối sự an toàn tới tất cả gói dữ liệu HTTP.
Mặc dù HTTPS k bao gồm all các khía cạnh trong chuẩn an toàn chung cho website service nhưng nó vừa mới phân phối một lớp bảo mật khá đa số với định danh, chứng nhận, tính toàn vẹn thông điệp hay độ tin cậy.
Đảm bảo an toàn cho web service:
khái niệm về WS-Security: đây là một chuẩn an toàn bao trùm cho SOAP, nó được sử dụng khi mong muốn xây dựng những website service toàn vẹn và tin cậy. toàn vẹn có nghĩa là khi có một giao dịch hay khi mạng tin, hệ thống và thông tin sẽ không bị chặn, giao dịch sẽ không bị mất cũng như k thể có người quét cắp được dữ liệu trên đường truyền. WS-security được design đưa tính mở nhằm hướng tới những mô ảnh an toàn không giống bao gồm PKI, Kerberos và SSL. Nó cũng mang ra nhiều support cho các cơ chế an toàn không giống, nhiều khuôn dạng chữ ký và công nghệ mã hóa, đảm bảo sự an toàn, vẹn toàn thông điệp và tính tin cậy của thông điệp. không những thế, WS-security cũng chưa thể đảm bảo được tất cả yêu cầu về bảo mật và an toàn thông tin, nó chỉ là một trong những lớp của giải pháp an toàn cho website service.
Tính toàn vẹn xây dựng một chữ ký số hóa XML dựa trên content của thông điệp. Nếu dữ liệu bị refresh bất hợp pháp, nó sẽ không còn thêm vào với chữ ký số hóa XML đó. Chữ ký này được xây dựng dựa trên kiềm hãm mà người gửi thông điệp xây dựng, do đó người nhận chỉ nhận thông điệp khi có chữ ký sử dụng và nội dung phù hợp. trái lại sẽ có một thông báo lỗi. Việc chứng nhận được thực hiện giữa client và server là mẹo chứng thực rất cơ bản (sử dụng định danh người dùng và mật khẩu).
WS-security chỉ là một trong những lớp an toàn và bảo mật cho website service, do đó cần một mô hình an toàn chung to hơn để đủ nội lực bao quát được các khía cạnh khác. Các yếu tố được thêm đủ nội lực là WS-Secure Conversation Describes,WS-Authentication Describes,WS-Policy Describes hay WS-Trust Describes. Chúng sẽ thực hiện việc đảm bảo an toàn hơn cho hệ thống khi trao đổi dữ liệu, xây dựng và đóng các phiên sử dụng việc cũng như cai quản dữ liệu cần chứng thực và chính sách chứng nhận.
6. xây dựng một dịch vụ web
Có 4 giai đoạn chính để thiết lập một dịch vụ website là thiết lập, triển khai, tiến hành và thống trị, trong đó:
- giai đoạn thiết lập gồm có phát triển và chạy thử áp dụng dịch vụ website, xây dựng các tính năng và định nghĩa dịch vụ. Có hai phương pháp khác nhau để tiến hành trong công đoạn này, đó là Red-path- solod và Blue-path-dashed. Với Red- path-solod, chúng ta sẽ xây dựng một dịch vụ website mới từ hiện trạng ban đầu hoặc với một dịch vụ đang có sẵn. Từ đó, xây dựng định nghĩa service (WSDL) với các phân khúc, hàm chức năng mà chúng ta muốn. Nếu theo cách Blue-path-dashed, dịch vụ web sẽ được xây dựng từ đầu hoặc từ một định nghĩa dịch vụ WSDL. dùng WSDL này, xây dựng hoặc sửa đổi lại mã để thực hiện các yêu cầu mong muốn trong dịch vụ website.
- giai đoạn triển khai: công bố khái niệm dịch vụ, thiết lập WSDL và triển khai mã thực thi của dịch vụ web. khai triển dịch vụ website tới một vận dụng phía server, sau đó sẽ công bố dịch vụ web trên trực tuyến Internet để các client có thể nhìn thấy. dùng UDDI registry để công bố lên online.
- giai đoạn tiến hành: tìm kiếm và gọi thực thi dịch vụ web bởi những user mong muốn dùng dịch vụ.
- Quản lý: thống trị và quản trị dịch vụ, duy trì sự ổn định của dịch vụ, cập nhật thông tin mới, fix lỗi khi nó xảy ra…
Để thiết lập một dịch vụ web, chúng ta cần hiểu được những việc phải làm và nên từ khi đâu. Có 3 cách tiếp cận chủ yếu để thiết lập nên một dịch vụ website, có thể từ một vận dụng vừa mới có (bottom-up); từ một định nghĩa dịch vụ, WSDL để phát sinh một vận dụng mới (top-down) hoặc có thể từ một group các dịch vụ web hiện có, kết hợp lại với nhau để tạo nên các chức năng mới hoặc mở rộng thêm chức năng. Những hướng tiếp cận này dựa trên những gì mà chúng ta đang có, tùy thuộc vào yêu cầu của hệ thống, trong đó tối đa việc sử dụng lại các chức năng, các yếu tố, môđun đã được xây dựng.
Qui trình xây dựng một dịch vụ website gồm có các bước sau:
- khái niệm và thiết lập các tính năng, các dịch vụ mà dịch vụ sẽ cung cấp (sử dụng ngôn ngữ Java chẳng hạn).
- Tạo WSDL cho dịch vụ
- xây dựng SOAP server
- tải ký WSDL với UDDI registry để cho phép các client đủ nội lực tìm thấy và truy xuất.
- Client nhận file WSDL và từ đó xây dựng SOAP client để đủ nội lực liên kết với SOAP server
- thiết lập ứng dụng phía client (chẳng hạn sử dụng Java) và sau đó gọi thực hiện dịch vụ thông qua việc kết nối tới SOAP server.
lựa chọn một ngôn ngữ, xây dựng các quá trình nghiệp vụ và chúng ta bắt đầu tạo nên một dịch vụ website như ý mong muốn. Sau đó là cung cấp dịch vụ web này trên Internet.
7. Tích hợp dịch vụ website theo phù hợp
Để có thể thành đạt với dịch vụ web chúng ta phải quan tâm đến khá nhiều chủ đề, bao gồm việc triển khai, giám sát và tích hợp nền tảng. doanh nghiệp k những phải tăng trưởng một vận dụng dịch vụ website mới mà còn phải tích hợp các ứng dụng nghiệp vụ phụ trợ của họ trong kiến trúc Dịch vụ website. Cùng với việc triển khai và tích hợp, những doanh nhân và những người dùng kỹ thuật cũng nên có mức độ giám sát, khai triển toàn diện để đảm bảo hoạt động mua bán kết quả và tin cậy.
- Giám sát (monitoring): Cần hỗ trợ ở cả mức tool và cơ sở hạ tầng để giám sát các dịch vụ web chạy như thế nào qua toàn bộ online, từ một chi nhánh con của một doanh nghiệp trên trực tuyến tới các chi nhánh không giống trong công ty hay giao tiếp với doanh nghiệp không giống. kết hợp thông báo theo sự kiện với các lỗi trong luồng nghiệp vụ cho những user không có trải nghiệm giám sát dịch vụ web và các dịch vụ kế thừa khác.
- xác định đường đi dữ liệu (Data routing): Việc thiết lập đường đi của dữ liệu giữa những yếu tố của dịch vụ website hướng tới tối đa hóa cấp độ dùng lại. Nếu coi một nguyên nhân (component) là một thị trường thì mỗi thể hiện (instance) của nó sẽ không chú ý đến các thể hiện khác của cùng nguyên nhân đó. Những thể hiện của cùng một thành phần có thể không khó khăn được dùng lại trong các vận dụng phân tán khác bởi vì chúng hoàn toàn độc lập và không phụ thuộc lẫn nhau.
- triển khai (Deployment): khai triển các dịch vụ website có cấp độ nâng cấp, điều khiển và cấu ảnh các thành phần từ xa thông qua online phân tán.
- quản lý (Management): đủ sức xây dựng theo kiến trúc P2P (Peer-to-Peer). Các hoạt động chính giống như thực thi các yếu tố, định tuyến dữ liệu, giải quyết luồng công việc và chuyển đổi dữ liệu được thực hiện giờ các điểm cuối của mạng. Server sẽ tập kết khắc phục các hoạt động không giống giống như quản lý, điều khiển event, chứng nhận bảo mật và quản trị.
- Cấu ảnh và cai quản phiên bản (Configuration and version management): dùng các công cụ linh hoạt để quản lý các phiên bản khác nhau của dịch vụ website, cho phép các phiên bản được nâng cấp và điều khiển từ một tool cai quản tập hợp. kết hợp giữa ứng dụng và mạng giúp các kỹ sư triển khai có thể điều khiển các thành phần chạy trên nền tảng nền tảng phần cứng cụ thể bên trong online.
- Bảo mật (Security): các hợp lý xây dựng giống như HTTP, XML, SOAP, WSDL và chuẩn bảo mật JSM được dùng rộng rãi khiến chúng trở thành lý tưởng để thiết lập các ứng dụng website. đầu tiên, dịch vụ website sử dụng những công nghệ này như firewall, SSL và các chứng nhận số. Dịch vụ web thế hệ sau này sẽ phối hợp với những công nghệ có mức độ bảo mật cao hơn, như mã hóa XML và chứng thực số XML.
giống như vậy, với một dịch vụ web, việc giao tiếp và truyền nhận dữ liệu trở nên đơn giản và kết quả hơn, đồng thời mang lại chi phí thấp hơn và tăng cường những mức độ giao tiếp thời gian thực, liên kết với người khác trên khắp thế giới. Bản chất của nền móng công nghệ này là kiến trúc hướng dịch vụ và thành đạt của dịch vụ web có tương lai rất khả quan.
Nguồn: https://expressmagazine.net/